Mới đây, cách viết cải tiến Tiếng Việt mà PGS.TS. Bùi Hiền (nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội) đề xuất trong cuốn sách vừa xuất bản gây nhiều sự chú ý, tranh cãi. Ông tỏ ra bất ngờ khi bị “ném đá” bởi trước đây, nếu đồng ý hay không cũng không có ai phản ứng thái quá, vô văn hóa như vậy.
Cuốn sách cải tiến Tiếng Việt có tên Ngôn ngữ ở Việt Nam – Hội nhập và phát triển (tập 1) dày 2.200 trang, do NXB Dân trí phát hành, nhân Hội thảo ngữ học toàn quốc được tổ chức tại Trường Đại học Quy Nhơn hồi tháng 9/2017.

PGS.TS Bùi Hiền, nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương pháp dạy – học phổ thông, người đề xuất cải tiến bảng chữ cái cho hay, sau khi công trình nghiên cứu chưa hoàn chỉnh của ông được giới thiệu lên báo một cách không khéo dẫn đến dư luận phản ứng quyết liệt.
PGS. TS Bùi Hiền cho biết, công trình nghiên cứu cải cách tiếng Việt được ông bắt tay thực hiện hơn 30 năm về trước.
“Đây là vấn đề hết sức nghiêm túc và tôi đã nghiên cứu công trình khoa học này mấy chục năm nay chứ không phải tự nhiên cao hứng lên viết một bài vớ vẩn. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa làm xong mà mới chỉ được có một nửa, tức là đưa ra phần phụ âm còn nguyên âm thì chưa”, PGS Hiền nói.
PGS. TS Bùi Hiền chia sẻ thêm, đến tháng 3/2018, ông sẽ báo cáo nốt phần sau để cho các đồng nghiệp tham khảo, đóng góp ý kiến và góp ý.

Theo PGS. TS Bùi Hiền, việc một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc nhưng chưa hoàn thiện được đưa lên nhưng lại bị “ném đá”, thậm chí mạt sát, xúc phạm cá nhân, danh dự nhà khoa học là không nên.
Nhà khoa học này cũng khẳng định, dù đã có hàng trăm bài báo nghiên cứu khoa học đăng ở các tạp chí nhưng đây là lần đầu tiên ông gặp phải sự phản ứng gay gắt, “ném đá” của dư luận như vậy.
“Có người bảo tôi thần kinh, điên mới đưa ra cải tiến bảng chữ cái như vậy nhưng rõ ràng, họ chưa đọc kỹ và cũng kệ họ thôi, không sao cả. Còn nếu nghe nghiêm túc sẽ thấy những vấn đề tôi đưa ra chưa chắc vô bổ.
Với một nhà khoa học chân chính, nghiêm túc dù có bị ném đá những hòn đá vớ vẩn, bẩn thỉu như vậy, tôi sẽ không lùi bước, rụt vào không nghiên cứu.
Bởi tôi nghiên cứu có cơ sở khoa học, thực tiễn, mục tiêu rõ ràng và sẽ đạt được kết quả, giúp ích cho ngành giáo dục, Nhà nước, nhân dân.
Tuy nhiên, tới đây, sẽ phải làm cho kín kẽ, chắc chắn, rõ ràng vì đây là vấn đề lớn, động đến toàn dân chứ không phải của một vài người hay sốc, nổi”, PGS Hiền nêu.

Ông Phạm Hiệp, nghiên cứu sinh tại ĐH Văn hóa Trung Hoa (Đài Loan, Trung Quốc), cho rằng trong khoa học, có hai nguyên tắc quan trọng mà người nghiên cứu cần thực hiện.
Thứ nhất, làm nghiên cứu có phương pháp. Trước khi làm, anh phải đề ra quy trình, các bước kiểm soát, đối tượng thực hiện, điều kiện kèm theo, kỹ thuật sẽ sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
Thứ hai, người khoa học làm thử, nếu sai quay lại để điều chỉnh để tiếp tục làm tiếp.
Việc PGS Bùi Hiền đưa ra đề xuất về bộ chữ giản lược cho tiếng Việt đều đáp ứng cả 2 nguyên tắc trên. PGS đã đề ra nguyên tắc của bộ chữ mới (phương pháp) và test thử với một vài văn bản.
Việc thử này đúng, sai thế nào chưa thể đánh giá ngay được. GS Hiền có lẽ cũng chưa biết hết nên mới viết thử và trình bày ở hội nghị khoa học. Đó là một hành động chuẩn mực và bình thường của thế giới nghiên cứu.
“Rất tiếc, sau khi thông tin được đưa ra, nhiều người chửi bới, thóa mạ PGS Bùi Hiền vô lối như thể ông vừa gây tội ác gì ghê gớm, trong khi không chỉ ra được tính bất hợp lý trong phương pháp; sự thiếu hiệu quả so với những mục tiêu mà GS đề ra”, ông Hiệp cho hay.
Cũng theo ông Hiệp, kể cả đề xuất của GS Hiển có “sai”, ông cũng không đáng bị lên án đến vậy, bởi vì cái “sai” của ông là kết quả của một quá trình thực hiện có phương pháp. Sai và chấp nhận được sai là quyền của GS Hiển với tư cách một nhà khoa học nói riêng và con người nói chung.

Về vấn đề này, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm là Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư ngành Ngôn ngữ học bày tỏ quan điểm: Những vấn đề mà PGS.TS Bùi Hiền đề xuất không có gì mới, còn những giải pháp mà ông đưa ra thì rối rắm hơn các đề xuất trước đó rất nhiều.
Những ngày qua, nhiều người, trong đó có phụ huynh và học sinh, lo lắng rằng lại sắp có cuộc cải tiến chữ viết, sắp có sự xáo trộn trong giáo dục. Với kinh nghiệm của mình, tôi tin tưởng sẽ không có thay đổi nào về chữ viết cả.
Ý kiến của PGS Bùi Hiền nêu ra chỉ là quan điểm cá nhân để giới khoa học xem xét. Tôi tin phần đông nhà ngôn ngữ học, cũng như các nhà quản lý giáo dục, sẽ không đồng tình và chắc chắn nó sẽ không đi đến đâu cả.
PGS.TS Bùi Hiền đề xuất thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có: C = Ch, Tr; D = Đ; G = G, Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; R = R; S = S; X = Kh; W =Th; Z = d, gi, r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có ký tự mới thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng kí tự ghép n’ để biểu đạt.
Ông Bùi Hiền đưa ra ví dụ về việc cải tiến Tiếng Việt:
LUẬT GIÁO DỤC
Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy ngoại ngữ.
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần đảm bảo để người học được học liên tục và có hiệu quả.
LUẬT ZÁO ZỤK
Diều 7. Qôn qữ zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák; zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số; zạy qoại qữ.
Tiếq Việt là qôn qữ cín’ wứk zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Kăn kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ wể về nội zuq záo zụk, Wủ tướq cín’ fủ kuy dịn’ việk zạy và họk bằq tiếq nướk qoài coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. N’à nướk tạo diều kiện dể qười zân tộk wiểu số dượk họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk mìn’ n’ằm zữ zìn và fát huy bản sắk văn hoá zân tộk, zúp co họk sin’ qười zân tộk wiểu số zễ zàq tiếp wu kiến wứk xi họk tập coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák.
Việk zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số dượk wựk hiện weo kuy dịn’ kủa Cín’ fủ.
Qoại qữ kuy dịn’ coq cươq cìn’ záo zụk là qôn qữ dượk sử zụq fổ biến coq zao zịk kuốk tế . Việk tổ cứk zạy qoại qữ coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák kần dảm bảo dể qười họk liên tụk và kó hiệu kuả.